Chỉ số giá tiêu dùng tỉnh Bình Định tháng 6/2021 tăng 0,03% so tháng trước

Thứ sáu - 25/06/2021 07:30
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tỉnh Bình Định tháng 6/2021 tăng 0,03% so tháng trước, tăng 4,14% so với cùng kỳ năm trước, tăng 1,92% so với tháng 12 năm trước, bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 2,86% so với cùng kỳ.
IMG 2089
IMG 2089
CPI tháng 6/2021 so với tháng trước: Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính của tháng 6/2021, 6 nhóm có chỉ số giá tăng so với tháng trước: Tăng mạnh nhất là nhóm giao thông tăng 0,8%; kế tiếp là nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,68%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,56%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,35%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,18%; tăng thấp nhất là nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,08%. Ngược lại, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,49%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,43%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,34%; nhóm giáo dục giảm 0,15%. Riêng nhóm thuốc và dịch vụ y tế có chỉ số giá ổn định so với tháng trước.
Tác động CPI tháng 6 năm 2021 so với tháng trước tăng, tập trung một số nhóm hàng sau: Nhóm giao thông tăng 0,8%, do Liên Bộ Tài chính  và Công Thương điều chỉnh tăng giá xăng, dầu ngày 11/6/2021 đã ảnh hưởng đến nhóm nhiên liệu tăng 2,64%. Tiếp theo là nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,68%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,35% do giá hàng dệt trong nhà tăng 1,55%; vật phẩm tiêu dùng khác tăng 0,94%; xà phòng và chất tẩy rửa tăng 0,25%. Tăng cao nhất ảnh hưởng đến nhóm này là dịch vụ sửa chữa thiết bị gia đình: sửa chữa tủ lạnh tăng 9,54%; sửa chữa máy giặt tăng 4,88% do nhu cầu tiêu dùng trong mùa nắng nóng. Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,56%, tháng 6/2021 là tháng bắt đầu các công trình thi công xây dựng, giá sắt thép nguyên liệu nhập khẩu tăng; theo đó, các bãi cát bị đình chỉ khai thác, nên giá nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 1,99%; cùng với đó, vào thời tiết nắng nóng nên nhu cầu tiêu dùng cho sinh hoạt điện nước tăng 0,21%.
Tác động CPI tháng 6/2021 giảm so tháng trước: Chỉ số giá lương thực giảm 0,3%, chủ yếu ở các mặt hàng gạo giảm 1,23%, do tại địa phương nông dân vừa thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân; thêm vào đó, lượng gạo xuất khẩu giảm do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19; trong khi đó, bột mỳ và ngũ cốc khác tăng 0,4% . Chỉ số nhóm thực phẩm giảm 0,47% so với tháng trước do giá một số mặt hàng biến động như sau: Thịt gia súc tươi sống giảm 3,16%, ảnh hưởng chủ yếu từ  giá thịt lợn hơi giảm 3,05% do không xuất đi Trung Quốc được do dịch Covid-19; thịt bò giảm 3,54% vì nguồn cung dồi dào, kéo theo giá thịt chế biến giảm 2,3%.  Thịt gia cầm tươi sống giảm 0,97%, nhất là thịt vịt giảm 4,98%, thịt gà giảm 0,36%. Ngược lại, giá trứng các loại tăng 2,95% (chủ yếu tăng trứng tươi các loại và trứng đã chế biến tăng: 2,93% và 3,38%). Thủy hải sản tươi sống tăng 0,39%, do giá mặt hàng cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,12%. Thời tiết nắng nóng, nguồn cung cấp rau, quả sản xuất trong tỉnh và nguồn nhập từ ngoài tỉnh đều giảm, trong khi nhu cầu tiêu dùng lại tăng cao, làm cho giá rau tươi, khô và chế biến tăng 3,8%; trong đó, đỗ quả tươi tăng 12,58%; cà chua tăng 15,17%; bắp cải tăng 5,05%; rau dạng quả củ tăng 1,2%. Các mặt hàng quả tươi, chế biến giảm 6,09%; giảm mạnh nhất là xoài giảm 20,31%, do xoài năm nay được mùa, sản lượng thu hoạch cao, lại bị dịch bệnh nên vận chuyển hàng bán đi các tỉnh cũng khó khăn, dẫn đến giá rất thấp. Tuy nhiên, các loại quả có múi tăng 0,54% (cam, bưởi, chanh, quýt), vì thời tiết nắng nóng và dịch bệnh Covid-19 nên nhu cầu người tiêu dùng nhiều. Ăn uống ngoài gia đình (-0,59%), các mặt hàng dịch vụ ăn uống giảm 0,59% do giá thực phẩm giảm so với tháng trước; thêm vào đó, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên người tiêu dùng hạn chế việc ăn uống tại các quán ăn, nhà hàng,…vì thế, ăn ngoài gia đình giảm 1,1%.
Giá vàng tại thị trường trong tỉnh bình quân 5.219 ngàn đồng/chỉ, tăng 1,09% so tháng trước. Giá đô la Mỹ bình quân tháng 06 năm 2021 là 23.101 VND/USD, giảm 0,4%.
Bình quân 6 tháng đầu năm 2021,  CPI tăng 2,86% so với cùng kỳ. Trong 11 nhóm hàng chính, có 8 nhóm có chỉ số tăng lần lượt như sau: Nhóm Giáo dục tăng 5,31%; Hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 5,21%; Giao thông tăng 5,05%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,28%; May mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,09%; Đồ uống và thuốc lá tăng 1,59%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,07%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%. Ngược lại, nhóm Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 1,58%; nhóm Bưu chính viễn thông giảm 1,29%; nhóm Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,07%. Chỉ số giá vàng tăng 14,35% và đô la Mỹ giảm 0,98% so với cùng kỳ./.

Tác giả bài viết: Nguyễn Thị Mỹ

Tổng số điểm của bài viết là: 4 trong 4 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 4 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Số:1100/QĐ-CTK

Quyết định về việc ban hành Lịch phổ biến thông tin thống kê năm 2024

lượt xem: 326 | lượt tải:67

Số:189 /KH-UBND

KH-Triển khai thực hiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã

lượt xem: 275 | lượt tải:145

Số: 4072/QĐ-UBND

Quyết định thực hiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã

lượt xem: 277 | lượt tải:85

Số: 1082/QĐ-CTK

Quyết định về việc ban hành Lịch phổ biến thông tin thống kê năm 2023

lượt xem: 158 | lượt tải:37

Số: 879/QĐ-TCTK

Quyết định ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045

lượt xem: 1021 | lượt tải:257
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập218
  • Máy chủ tìm kiếm86
  • Khách viếng thăm132
  • Hôm nay24,379
  • Tháng hiện tại758,373
  • Tổng lượt truy cập42,106,170
Liên kết Web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây