Thổ nhưỡng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn ít phì nhiêu, nhiều nơi đồng ruộng khá cằn cỗi. Biến đổi khí hậu và thời tiết nhiều năm nay rất thất thường, việc trồng trọt gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa trong những năm gần đây việc chuyển đổi diện tích gieo trồng lúa từ 3 vụ sang 2 vụ/năm ngày càng nhiều nên diện tích trồng cây lương thực nhất là lúa ngày càng giảm. Nông dân thời @ trên địa bàn huyện với tính cần cù và trình độ thâm canh ngày càng cao, áp dụng các thành tựu khoa học kỷ thuật khá sâu rộng như : Lịch gieo trồng phù hợp; Các giống lúa có năng suất cao ngày càng nhiều; Cơ giới hóa từ khâu làm đất đến khâu thu hoạch; Chăm sóc lúa theo chương trình phòng trừ dịch hại tổng hợp IBM; Bón phân bằng phương pháp so màu lá lúa; Kiên cố hóa kênh mương được đầu tư lớn… Từ những biện pháp nêu trên nên sản lượng lương thực đạt khá cao, nhất là sản lượng lúa đã đáp ứng nhu cầu tái sản xuất, tiêu dùng và dự trữ luôn đảm bảo chắc chắn.
Qua bảng số liệu thống kê về diện tích và sản lượng cây lương thực có hạt 5 năm qua từ năm 2013 đến năm 2017 ta thấy được chính sách an ninh lương thực của huyện Hoài Nhơn luôn được giữ vững trong giới hạn rất an toàn.
Năm |
DT gieo trồng cây lương thực có hạt (Ha) |
Chia ra |
|
Lúa |
Ngô |
||
2013 |
15.552 |
13.910 |
1.642 |
2014 |
15.503 |
13.929 |
1.574 |
2015 |
15.596 |
14.020 |
1.576 |
2016 |
14.766 |
13.180 |
1.586 |
2017 |
14.684 |
13.115 |
1.569 |
Năm |
Sản lượng cây lương thực có hạt (Tấn) |
Chia ra |
|
Lúa |
Ngô |
||
2013 |
91.349 |
82.031 |
9.318 |
2014 |
92.623 |
83.596 |
9.027 |
2015 |
93.618 |
84.462 |
9.156 |
2016 |
90.673 |
81.202 |
9.471 |
2017 |
92.814 |
83.142 |
9.672 |
Cây lương thực trên địa bàn huyện chủ yếu là lúa, ngô(cây có hạt). Cây tinh bột khác như sắn, khoai lang, khoai các loại khác rất ít. Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt của huyện năm 2017 so với năm 2013 giảm 5,58% nhưng sản lượng thu hoạch không những không giảm mà tăng 1,6%. Việc chuyển đổi đất trồng lúa của huyện từ 3 vụ không ăn chắc sang 2 vụ ăn chắc trong 5 năm qua, nhất là 2 năm gần đây (2016 và 2017) ngày càng nhiều nên diện tích gieo trồng lúa đã giảm mạnh. Diện tích gieo trồng lúa năm 2017 giảm so với năm 2013 là 6,3% (795 ha) nhưng sản lượng lúa năm 2017 tăng so với năm 2013 là 1,35% ( 1.111 tấn). Bảng số liệu thống kê kết quả gieo trồng lúa của huyện qua 5 năm như sau :
Năm |
Tổng số (ha) |
Chia ra vụ |
||
Đông Xuân |
Hè thu |
Vụ nùa |
||
2013 |
13.910 |
5.844 |
4.899 |
3.167 |
2014 |
13.929 |
5.849 |
5.331 |
2.749 |
2015 |
14.020 |
5.856 |
5.395 |
2.769 |
2016 |
13.180 |
5.840 |
5.024 |
2.316 |
2017 |
13.115 |
5.775 |
5.199 |
2.141 |
Tuy diện tích lúa giảm nhưng 5 năm qua sản lượng lúa của huyện luôn đạt trên 81 ngàn tấn/năm. Đây là nỗ lực rất cao của huyện. Hơn 10 năm, nhìn lại chặng đường gian nan từ những ngày đầu vận động nông dân chuyển đổi hình thức canh tác từ trồng lúa 3vụ/năm sang trồng lúa 2 vụ/năm, mới thấy được kỳ tích rất đáng tự hào. Ông cha ta thường nói « Có thực mới vực được đạo », chính vì vậy khi chuyển từ trồng lúa 3 vụ/năm sang 2 vụ/năm nhiều người lo khó giữ vững được vấn đề an ninh lương thực. Giữ vững an ninh lương thực là chính sách an dân. Lãnh đạo huyện quyết đưa nông nghiệp và nông dân đi đúng hướng. Năm 2017 sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người 440 kg, trong đó lúa 394,4 kg. Bộ mặt nông thôn trên địa bàn huyện ngày càng khởi sắc. Điện, đường, trường, trạm ngày càng khang trang, sạch đẹp. Hệ thống đường giao thông nông thôn và kênh mương thủy lợi ngày càng được bê tông hóa rất nhiều. Toàn huyện 100% số hộ đã được sử dụng điện lưới Quốc gia. Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới của huyện gần đạt đến mục tiêu. Trong năm 2017 huyện có 5 xã đạt xã nông thôn mới. Đến nay huyện đã có 10/15 xã (chiếm 66,7%) đạt xã nông thôn mới. Huyện đặt mục tiêu năm 2018 ít nhất 3 trong 5 xã còn lại sẽ cán đích nông thôn mới và đưa huyện đạt huyện nông thôn mới vào năm 2019, trước thời gian so với kế hoạch 1 năm. Đây chắc chắn là mục tiêu rất khả thi, toàn huyện rất lạc quan vào chính sách an ninh lương thực của hiện tại và cả tương lai.
Những tin mới hơn