An ninh lương thực huyện Hoài Nhơn giai đoạn 2013-2017

Thứ sáu - 08/03/2019 09:53
Hoài Nhơn là huyện có dân số đông thứ 2 của tỉnh Bình Định (dân số trung bình năm 2016 là 210.803 người), mật độ dân số cao, năm 2016 bình quân 501 người/Km2; đất canh tác nông nghiệp bình quân 0,167 ha/người, rất thấp, trong đó đất trồng lúa chỉ 0,029 ha/người. Áp lực tăng dân số, đô thị hóa diễn ra ngày càng nhanh, hệ quả là diện tích đất nông nghiệp, nhất là đất lúa giảm, vì vậy an ninh lương thực nhất là lúa gạo luôn là vấn đề nóng của các cấp lãnh đạo huyện.

 

Thổ nhưỡng trên địa bàn huyện Hoài Nhơn ít phì nhiêu, nhiều nơi đồng ruộng khá cằn cỗi. Biến đổi khí hậu và thời tiết nhiều năm nay rất thất thường, việc trồng trọt gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa trong những năm gần đây việc chuyển đổi diện tích gieo trồng lúa từ 3 vụ sang 2 vụ/năm ngày càng nhiều nên diện tích trồng cây lương thực nhất là lúa ngày càng giảm. Nông dân thời @ trên địa bàn huyện với tính cần cù và trình độ thâm canh ngày càng cao, áp dụng các thành tựu khoa học kỷ thuật khá sâu rộng như : Lịch gieo trồng phù hợp; Các giống lúa có năng suất cao ngày càng nhiều; Cơ giới hóa từ khâu làm đất đến khâu thu hoạch; Chăm sóc lúa theo chương trình phòng trừ dịch hại tổng hợp IBM; Bón phân bằng phương pháp so màu lá lúa; Kiên cố hóa kênh mương được đầu tư lớn… Từ những biện pháp nêu trên nên sản lượng lương thực đạt khá cao, nhất là sản lượng lúa đã đáp ứng nhu cầu tái sản xuất, tiêu dùng  và dự trữ luôn đảm bảo chắc chắn.

Qua bảng số liệu thống kê về diện tích và sản lượng cây lương thực có hạt 5 năm qua từ năm 2013 đến năm 2017 ta thấy được chính sách an ninh lương thực của huyện Hoài Nhơn luôn được giữ vững trong giới hạn rất an toàn.

 

Năm

DT gieo trồng cây lương thực có hạt (Ha)

Chia ra

Lúa

Ngô

2013

15.552

13.910

1.642

2014

15.503

13.929

1.574

2015

15.596

14.020

1.576

2016

14.766

13.180

1.586

2017

14.684

13.115

1.569

 

Năm

Sản lượng cây lương thực có hạt (Tấn)

Chia ra

Lúa

Ngô

2013

91.349

82.031

9.318

2014

92.623

83.596

9.027

2015

93.618

84.462

9.156

2016

90.673

81.202

9.471

2017

92.814

83.142

9.672

Cây lương thực trên địa bàn huyện chủ yếu là lúa, ngô(cây có hạt). Cây tinh bột khác như sắn, khoai lang, khoai các loại khác rất ít. Diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt của huyện năm 2017 so với năm 2013 giảm 5,58% nhưng sản lượng thu hoạch không những không giảm mà tăng 1,6%. Việc chuyển đổi đất trồng lúa của huyện từ 3 vụ không ăn chắc sang 2 vụ ăn chắc trong 5 năm qua, nhất là 2 năm gần đây (2016 và 2017) ngày càng nhiều nên diện tích gieo trồng lúa đã giảm mạnh. Diện tích gieo trồng lúa năm 2017 giảm so với năm 2013 là 6,3% (795 ha) nhưng sản lượng lúa năm 2017 tăng so với năm 2013 là 1,35% ( 1.111 tấn). Bảng số liệu thống kê kết quả gieo trồng lúa của huyện qua 5 năm như sau :

Năm

Tổng số (ha)

Chia ra vụ

Đông Xuân

Hè thu

Vụ nùa

2013

13.910

5.844

4.899

3.167

2014

13.929

5.849

5.331

2.749

2015

14.020

5.856

5.395

2.769

2016

13.180

5.840

5.024

2.316

2017

13.115

5.775

5.199

2.141

 

Tuy diện tích lúa giảm nhưng 5 năm qua sản lượng lúa của huyện luôn đạt trên 81 ngàn tấn/năm. Đây là nỗ lực rất cao của huyện. Hơn 10 năm, nhìn lại chặng đường gian nan từ những ngày đầu vận động nông dân chuyển đổi hình thức canh tác từ trồng lúa 3vụ/năm sang trồng lúa 2 vụ/năm, mới thấy được kỳ tích rất đáng tự hào. Ông cha ta thường nói « Có thực mới vực được đạo », chính vì vậy khi chuyển từ trồng lúa 3 vụ/năm  sang 2 vụ/năm nhiều người lo khó giữ vững được vấn đề an ninh lương thực. Giữ vững an ninh lương thực là chính sách an dân. Lãnh đạo huyện quyết đưa nông nghiệp và nông dân đi đúng hướng. Năm 2017 sản lượng lương thực có hạt bình quân đầu người 440 kg, trong đó lúa 394,4 kg. Bộ mặt nông thôn trên địa bàn huyện ngày càng khởi sắc. Điện, đường, trường, trạm ngày càng khang trang, sạch đẹp. Hệ thống đường giao thông nông thôn và kênh mương thủy lợi ngày càng được bê tông hóa rất nhiều. Toàn huyện 100% số hộ đã được sử dụng điện lưới Quốc gia. Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới của huyện gần đạt đến mục tiêu. Trong năm 2017 huyện có 5 xã đạt xã nông thôn mới. Đến nay huyện đã có 10/15 xã (chiếm 66,7%) đạt xã nông thôn mới. Huyện đặt mục tiêu năm 2018 ít nhất 3 trong 5 xã còn lại sẽ cán đích nông thôn mới và đưa huyện đạt huyện nông thôn mới vào năm 2019, trước thời gian so với kế hoạch 1 năm. Đây chắc chắn là mục tiêu rất khả thi, toàn huyện rất lạc quan vào chính sách an ninh lương thực của hiện tại và cả tương lai.


Huỳnh Mai Cư

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 5 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 5 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Số 757/QĐ-CTK

Quyết định ban hành lịch phổ biến thông tin thống kê năm 2024

lượt xem: 75 | lượt tải:26

Số 62/2024/NĐ-CP

Nghị định Số 62/2024/NĐ-CP

lượt xem: 112 | lượt tải:33

Số:1100/QĐ-CTK

Quyết định về việc ban hành Lịch phổ biến thông tin thống kê năm 2024

lượt xem: 474 | lượt tải:100

Số:189 /KH-UBND

KH-Triển khai thực hiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã

lượt xem: 483 | lượt tải:335

Số: 4072/QĐ-UBND

Quyết định thực hiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã

lượt xem: 519 | lượt tải:140
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập14
  • Hôm nay2,934
  • Tháng hiện tại92,261
  • Tổng lượt truy cập49,691,022
Liên kết Web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây