Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định - 6 tháng đầu năm 2023

Thứ bảy - 01/07/2023 09:28
Tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất công nghiệp và xuất khẩu hàng hóa. Hiện nay, một số ngành sản xuất trong tỉnh còn đang gặp khó khăn do đơn hàng đầu ra giảm, nhưng có một số ngành tăng trưởng cao đã góp phần thúc đẩy chỉ số sản xuất công nghiệp cả tỉnh tăng nhẹ so với cùng kỳ.
Ảnh KTXH 6thg2023
Ảnh KTXH 6thg2023
Trong 6 tháng đầu năm 2023, sản xuất nông nghiệp của tỉnh tập trung vào chăm sóc, thu hoạch cây trồng vụ Đông Xuân và xuống giống, chăm sóc cây trồng vụ Hè Thu. Ngành Nông nghiệp đẩy mạnh tái đàn lợn, phát triển đàn bò thịt chất lượng cao, nuôi gà đồi... gắn với thực hiện có hiệu quả công tác tiêm phòng vaccine và phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, nhất là bệnh dịch tả lợn Châu Phi; Hoạt động lâm nghiệp chủ yếu là công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng; Hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản theo hướng bền vững gắn với các biện pháp bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản, thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác xa bờ; nhân rộng các mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại một số địa phương ven biển; Hoạt động khai thác thủy sản nhìn chung thuận lợi trong các tháng đầu năm.
Tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất công nghiệp và xuất khẩu hàng hóa. Hiện nay, một số ngành sản xuất trong tỉnh còn đang gặp khó khăn do đơn hàng đầu ra giảm, nhưng có một số ngành tăng trưởng cao đã góp phần thúc đẩy chỉ số sản xuất công nghiệp cả tỉnh tăng nhẹ so với cùng kỳ.
Các doanh nghiệp xuất khẩu đang rất khó khăn trong việc ký hợp đồng với đối tác. Tỉnh Bình Định có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cụ thể tình hình sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Sáu tháng đầu năm 2023, các sở, ngành, các địa phương trong tỉnh tập trung quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 56/NQ-HĐND ngày 10/12/2022 của HĐND tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 và Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 04/01/2023 của UBND tỉnh Bình Định về việc giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và giải pháp chủ yếu, nhiệm vụ cụ thể thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2023 trên địa bàn tỉnh. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý II năm 2023 ước tính tăng 7,22%. 6 tháng đầu năm 2023 tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tính tăng 6,46% xếp vị thứ 2 trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vị thứ 9 trong 14 tỉnh Bắc trung bộ và Duyên hải miền Trung và xếp vị thứ 27 cả nước. Trong bối cảnh giá xăng dầu tăng cao làm tăng chi phí sản xuất, chi phí vận tải, với mức tăng 6,46% của 6 tháng đầu năm 2023 là thuận lợi bước đầu trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội cả năm 2023. Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 0,87 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,91%, đóng góp 2,25 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 7,72%, đóng góp 3,14 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,75%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,27% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 2,3%) do phong trào nuôi bò vỗ béo ngày càng phát triển, trọng lượng xuất chuồng ngày càng tăng; Chính sách phát triển gà thả đồi ngày càng nhân rộng. Trong đó, ngành nông nghiệp tăng trưởng 3,85% (cùng kỳ tăng 2,77%), đóng góp 0,62 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng trưởng 2,47% (cùng kỳ tăng 2,37%), đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng trưởng 2,37% (cùng kỳ tăng 1,47%), đóng góp 0,22 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,49% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 10,49%), đóng góp 0,72 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,08% (cùng kỳ tăng 9,02%), đóng góp 0,37 điểm phần trăm. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng 13,68% (cùng kỳ tăng 37,32%), đóng góp 0,31 điểm phần trăm. Ngành cung cấp nước, quản lý, xử lý rác thải tăng 15,33% (cùng kỳ tăng 1,76%), đóng góp 0,05 điểm phần trăm. Ngành khai khoáng giảm 2,43% (cùng kỳ giảm 35,71%), làm giảm 0,01 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 19,34% (cùng kỳ tăng 6,45%), đóng góp 1,53 điểm phần trăm.
Sáu tháng đầu năm 2023, các hoạt động văn hóa, thể thao được phát triển mạnh để kích cầu du lịch, một số chương trình đặc sắc lần đầu tiên tổ chức tại Bình Định đã thu hút lượng lớn du khách tham gia, thúc đẩy các ngành lưu trú, ăn uống, lữ hành tăng trưởng. Khu vực dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2023 tăng 7,72% (cùng kỳ tăng 9,6%), đóng góp 3,14 điểm phần trăm. Một số ngành có tỷ trọng lớn trong khu vực dịch vụ như: Bán buôn và bán lẻ tăng 11,33%; ngành vận tải tăng 10,41%; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 11,03%; hoạt động vui chơi, giải trí tăng 8,63%; hoạt động dịch vụ khác tăng 25,81%.
Về cơ cấu kinh tế 6 tháng đầu năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 27,59%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 28,94%; khu vực dịch vụ chiếm 39,25%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,22% (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là: 28,15%; 28,99%; 38,57%; 4,29%).
2. Tài chính, ngân hàng
2.1. Thu, chi ngân sách
Thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2023 chịu ảnh hưởng của tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất khẩu không khả quan, do đó tổng thu ngân sách trên địa bàn giảm. Chi ngân sách địa phương đảm bảo đúng quy định, tiết kiệm, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu triển khai nhiệm vụ kinh tế, chính trị của các đơn vị sử dụng ngân sách. Thực hiện cắt giảm các khoản chi không thật sự cần thiết; thực hiện các biện pháp tăng thu, chống thất thu và nợ đọng thuế; đẩy mạnh thực hiện kê khai thuế điện tử và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình thuộc các nguồn vốn Nhà nước, vốn ODA,…; thoái vốn nhà nước; chuyển các đơn vị sự nghiệp thành công ty cổ phần...
Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 5.722,7 tỷ đồng, đạt 41,9% dự toán năm và bằng 75,2% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa (trừ tiền sử dụng đất; thu cổ tức, lợi nhuận được chia và lợi nhuận còn lại, xổ số kiến thiết) 3.565,4 tỷ đồng, đạt 51,5% dự toán năm, tăng 0,3% so với cùng kỳ; tiền sử dụng đất ước đạt 1.730 tỷ đồng, đạt 31,5% dự toán năm và bằng 50,9% so với cùng kỳ.
Tổng chi ngân sách địa phương 8.204 tỷ đồng, đạt 43,9% dự toán năm, tăng 1% so với cùng kỳ.
 2.2. Ngân hàng
Ước tính đến cuối tháng 6/2023, tổng số dư huy động của hệ thống ngân hàng, tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh ước đạt 98.390 tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ và tăng 8,3% so với tháng 12 năm 2022.
Tổng dư nợ cho vay tính đến 30/6/2023 ước đạt 99.420 tỷ đồng, tăng 2,1% so với cùng kỳ và tăng 3,6% so với tháng 12 năm 2022.
Ước đến 30/6/2023 nợ xấu trên địa bàn tỉnh chiếm 0,6% so với tổng dư nợ.  
3. Giá cả
3.1. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
CPI tháng 6 năm 2023 tại tỉnh Bình Định diễn biến tích cực. Chỉ số giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tỉnh Bình Định quý II/2023 giảm 0,47% so với quý trước, 6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,23% so với cùng kỳ. Đạt được kết quả trên là do có sự chỉ đạo kiểm soát giá cả lạm phát của Chính phủ; đồng thời, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Định chỉ đạo và điều hành quyết liệt, sâu sát, do đó, chỉ số giá tiêu dùng trong tầm kiểm soát đã góp phần ổn định và tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của tỉnh Bình Định tháng 6 năm 2023 tăng 0,18% so tháng trước; tăng 0,98% so với cùng kỳ năm trước; tăng 0,44% so với tháng 12 năm trước.
Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính của tháng 6/2023, 5 nhóm có chỉ số giá tăng so với tháng trước: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,35%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,26%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,24%; nhóm giao thông tăng 0,15%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%. Ngược lại, có 1 nhóm giảm giá so với tháng trước là nhóm giáo dục giảm 0,2%. Các nhóm có chỉ số ổn định so với tháng trước: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép; nhóm thuốc và dịch vụ y tế; nhóm bưu chính viễn thông nhóm hàng hóa và dịch vụ khác.
CPI tháng 6 năm 2023 so với tháng trước tăng, nguyên nhân do trong tháng 6/2023 tại tỉnh Bình Định diễn ra nhiều chương trình, lễ hội, hoạt động văn hóa, thể thao; cùng với đó, tỉnh tổ chức chương trình marketing ở các nơi về tham gia các sự kiện tại tỉnh để quảng bá, xúc tiến du lịch Bình Định; do đó, thúc đẩy nhu cầu mua sắm phục vụ tiêu dùng của người dân địa phương và khách du lịch tăng tác động đến nhóm hàng ăn uống và dịch vụ, nhóm văn hóa, giải trí và du lịch. Bên cạnh đó trong tháng Liên Bộ Tài chính và Công Thương có 1 lần điều chỉnh tăng và 2 lần giữ nguyên giá xăng, cụ thể: xăng A95 tăng 221 đồng/lít; xăng E5 tăng 2 đồng/lít đã tác động làm nhóm giao thông tăng.
Chỉ số giá tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 2,23% so với cùng kỳ. Chỉ số giá tiêu dùng các tháng từ đầu năm đến nay so với cùng kỳ năm trước có xu hướng giảm dần, trong đó: CPI tháng 01 tăng cao nhất với 3,57%, tháng 02 tăng 3,25%, tháng 3 tăng 2,66%, tháng 4 tăng 1,67%, tháng 5 tăng 1,28% và đến tháng 6 mức tăng còn 0,98%. Trong 11 nhóm hàng chính, có 9 nhóm có chỉ số tăng lần lượt như sau: nhóm Giáo dục tăng 4,6%; Hàng ăn uống và dịch vụ ăn uống tăng 3,85%; Đồ uống và thuốc lá tăng 3,41%; May mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,41%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,11%; Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 1,97%; Bưu chính viễn thông tăng 1,8%. Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,44%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,94%. Ngược lại, Nhóm Thuốc và dịch vụ y tế không thay đổi và Nhóm Giao thông giảm 4%.
3.2. Chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ
Tháng 6 năm 2023, giá vàng thế giới tăng đã ảnh hưởng đến giá vàng trong nước tăng. Tại Bình Định, giá vàng tại thị trường trong tỉnh bình quân 5.456 ngàn đồng/chỉ, tăng 0,21% so tháng trước, giảm 0,48% so cùng kỳ; Giá đô la Mỹ tại địa phương bình quân tháng 6 năm 202323.644 VND/USD, tăng 0,14% so tháng trước, tăng 1,3% so cùng kỳ.
Chỉ số giá vàng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 giảm 1,42% và đô la Mỹ tăng 2,85% so với cùng kỳ.
3.3. Giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm, thủy sản
Trong quý II/2023, giá hàng hoá trên thị trường thế giới chịu tác động bởi yếu tố kinh tế, xã hội, chính trị của các nước và xung đột quân sự Nga – Ucraina. Đồng thời, nhiều quốc gia thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt khiến kinh tế các quốc gia trên thế giới gặp nhiều khó khăn. Tại tỉnh Bình Định, nhu cầu sản xuất hàng hoá bị giảm sút, giá nguyên liệu đầu vào đã giảm nhiệt. Chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý II năm nay giảm so quý trước và tăng nhẹ so cùng kỳ năm trước
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2022 giảm 1,8% so với quý trước. Trong đó, sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan giảm 2%; Sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan giảm  1,1%; Sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng giảm 1,5%
So với cùng kỳ, chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2022 tăng 0,4%. Trong đó, sản phẩm nông nghiệp và dịch vụ có liên quan giảm 0,6%, Sản phẩm lâm nghiệp và dịch vụ có liên quan tăng  1,7% ; Sản phẩm thủy sản khai thác, nuôi trồng tăng 2,2%.
          3.6. Giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất
Chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý II/2023 giảm 1,24% so với quý trước và giảm 0,55% so cùng kỳ.
Quý II/2022 so quý trước: Chỉ số giá nhóm sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản giảm 4,79%; sản phẩm từ khai khoáng tăng 1,09%; nhóm nguyên vật liệu khác giảm 0,65%; điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí tăng 4,29%; nước tự nhiên khai thác giữ ổn định; sản phẩm xây dựng tăng 0,57%; dịch vụ chuyên môn khoa học công nghệ tăng 0,13%.
Quý II/2022 so cùng kỳ: Chỉ số giá nhóm sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,04%; sản phẩm từ khai khoáng tăng 3,32%; nguyên vật liệu khác giảm 3,56%; điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí tăng 7,52%; nước tự nhiên khai thác tăng 15,14%; sản phẩm xây dựng tăng 2,95%; dịch vụ chuyên môn khoa học và công nghệ tăng 1,33%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất tăng 1,89%, trong đó chỉ số giá nhóm sản phẩm nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,33%, chỉ số giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản phẩm từ khai khoáng tăng 3,21%; nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản phẩm nước tự nhiên khai thác tăng 11,59%; nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản phẩm xây dựng tăng 3,31%; nguyên nhiên vật liệu dùng cho dịch vụ chuyên môn khoa học công nghệ tăng 1,26% so với cùng kỳ.
4. Đầu tư và xây dựng
Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định 6 tháng đầu năm 2023 duy trì được sự ổn định và phục hồi, phát triển. Để đạt được kết quả tăng trưởng trong năm 2023 theo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, UBND.
Tổng mức thực hiện vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Bình Định 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 17.499,8 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ.
- Vốn Nhà nước trên địa bàn ước đạt 6.807,4 tỷ đồng, chiếm 38,9%, tăng 29,3%. Trong đó, Vốn Nhà nước Trung ương quản lý ước đạt 1.772,9 tỷ đồng, chiếm 10,1%, tăng 123,4%; vốn Nhà nước địa phương quản lý ước đạt 5.034,5 tỷ đồng, chiếm 28,8%, tăng 12,6%;
- Vốn ngoài Nhà nước ước đạt 10.185,7 tỷ đồng, chiếm 58,2%, tăng 13,1%. Trong đó, Vốn của tổ chức, doanh nghiệp ngoài Nhà nước ước đạt 4.878,3 tỷ đồng, chiếm 27,9%, tăng 8,2%; vốn đầu tư của dân cư ước đạt 5.307,4 tỷ đồng, chiếm 30,3%, tăng 18,1%;
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 506,7 tỷ đồng, chiếm 2,9%, tăng 2,5%.
Theo khoản mục đầu tư, vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt 15.185,5 tỷ đồng, chiếm 86,8%, tăng 24,2%; vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua xây dựng cơ bản ước đạt 1.227,6 tỷ đồng, chiếm 7%, giảm 8,8%; vốn đầu tư sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản cố định ước đạt 398,6 tỷ đồng, chiếm 2,3%, giảm 8,3%; đầu tư bổ sung vốn lưu động ước đạt 514,6 tỷ đồng, chiếm 2,9%, giảm 10,7% và vốn đầu tư khác ước đạt 173,5 tỷ đồng, chiếm 1%, giảm 2,9% so với cùng kỳ.
Riêng nguồn vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 3.838 tỷ đồng, đạt 43% kế hoạch năm, tăng 16,2% so cùng kỳ.
4.2. Xây dựng
Thời gian qua tỉnh Bình Định đã rất tích cực trong việc thực hiện đồng bộ kết cấu hạ tầng, nhiều công trình lớn được hình thành, hệ thống giao thông diễn ra thông suốt kết nối các vùng trong tỉnh và các tỉnh lân cận, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư vào tỉnh.
Bên cạnh đó, một số dự án lớn của Bộ, ngành cũng được tỉnh triển khai như dự án tuyến đường cao tốc Bắc – Nam và một số tuyến đường ven biển khác. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020 – 2025, cũng đã xác định hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thông kết nối và hạ tầng kỹ thuật Khu kinh tế Nhơn Hội, các khu công nghiệp để thu hút đầu tư, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Các tuyến đường trong tỉnh được thực hiện nhanh chóng, đảm bảo chất lượng như: Tuyến đường ven biển đoạn Cát Tiến - Diêm Vân, tuyến đường Điện Biên Phủ nối dài đến Khu đô thị Diêm Vân, tuyến đường kết nối trung tâm thị xã An Nhơn đến đường ven biển phía Tây đầm Thị Nại, tuyến đường kết nối với đường ven biển (ĐT.639) trên địa bàn thị xã Hoài Nhơn, tuyến đường kết nối từ đường phía Tây tỉnh (ĐT.638) đến ĐT.639 trên địa bàn huyện Phù Mỹ… Bên cạnh đó, các dự án về giáo dục, y tế, nông nghiệp cũng được tỉnh quan tâm và thường xuyên theo dõi đôn đốc.
Các dự án giao thông trọng điểm có ý nghĩa rất quan trọng, tạo động lực, lan tỏa mạnh mẽ, thúc đẩy phát triển kinh tế. Vì vậy, trong thời gian qua tỉnh Bình Định rất chú trọng đến việc đổi mới đồng bộ hệ thống giao thông, nâng cấp các tuyến đường cũ và khởi công nhiều tuyến đường mới.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định đang triển khai dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 với tổng mức đầu tư 24.574,9 tỷ đồng. Trong đó, giá trị xây lắp là 15.906,8 tỷ đồng, kinh phí bồi thường giải phóng mặt bằng và tái định cư là 4.953,5 tỷ đồng. Sáu tháng đầu năm 2023 đã thực hiện gói thầu xây lắp trên 5% (hơn 795 tỷ đồng), đầu tư xây dựng khu tái định cư cho người dân là 743,1 tỷ đồng.
Các dự án xây dựng lớn được triển khai đã làm cho giá trị xây dựng của tỉnh ước quý II năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, theo giá hiện hành ước tăng 31,2%; giá so sánh tăng ước 30,7%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 giá trị xây dựng ước tăng 24,4% theo giá hiện hành và tăng 21% theo giá so sánh. Đây là mức tăng cao nhất trong nhiều năm nay.
5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp
5.1. Tình hình hoạt động doanh nghiệp
Tính đến ngày 15/6/2023, toàn tỉnh có 551 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 17% so cùng kỳ; số vốn đăng ký đạt 5.938,8 tỷ đồng, giảm 10,2% so với cùng kỳ, vốn bình quân một doanh nghiệp đạt 10,8 tỷ đồng, tăng 8,2%.
Bước vào đầu năm 2023, nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ, chi phí nguyên vật liệu đầu vào cao, nhiều doanh nghiệp nguồn tài chính không đảm bảo, sự cạnh tranh khốc liệt của hàng hoá trong và ngoài nước đã làm nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp quy mô sản xuất, tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể. Trong 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã có 446 doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động, tăng 9,6% và 36 doanh nghiệp đã giải thể, tăng 20% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, một số ít doanh nghiệp lạc quan vào sự tăng trưởng của nền kinh tế đã quay trở lại thị trường đạt 202 doanh nghiệp, giảm 23,8% so với cùng kỳ.
5.2. Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Quý II/2023 khó khăn hơn so với Quý I/2023. Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Quý II/2023 so với quý trước, có 24% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn; 42% số doanh nghiệp đánh giá khó khăn hơn rơi vào các nhóm ngành dệt, sản xuất trang phục; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế...; còn lại số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định chiếm tỷ lệ 34%. Dự kiến Quý III/2023 so với Quý II/2023 có khả quan hơn, có 35% số doanh nghiệp cho rằng xu hướng sẽ tốt lên; 26% số doanh nghiệp dự báo kém đi và 39% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định.
6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
6.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt
Ngành Nông nghiệp tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Lãnh đạo Tỉnh, sự tích cực chủ động điều hành kế hoạch sản xuất, đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng của các địa phương trong việc chuyển đổi diện tích đất lúa kém hiệu quả sang các cây trồng cạn có giá trị kinh tế.
Theo kết quả sơ bộ, tổng diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm vụ Đông Xuân 2022-2023 đạt 77.919,9 ha, giảm 0,4% (-335,2 ha) so với vụ Đông Xuân năm trước. Trong đó, diện tích gieo trồng lúa Đông Xuân ước đạt 46.881,6 ha, giảm 1,5% (-722 ha) so với cùng kỳ; năng suất lúa ước đạt 71,9 tạ/ha, tăng 3,2% (+2,2 tạ/ha); sản lượng lúa ước đạt 336.962,2 tấn, tăng 1,5% (+5.024,1 tấn) so với cùng kỳ.
Diện tích gieo trồng ngô đạt 2.319,2 ha, tăng 4,8% (+107,1 ha); năng suất đạt 66,5 tạ/ha, tăng 1,8% (+1,2 tạ/ha); sản lượng đạt 15.418 tấn, tăng 6,8% (+982,9 tấn).
Diện tích sắn đạt 8.062,3 ha, giảm 2% (-168,1 ha); năng suất đạt 288,3 tạ/ha, tăng 3,2% (+8,9 tạ/ha); sản lượng đạt 232.402,8 tấn, tăng 1% (+2.412,6 tấn).
Diện tích lạc đạt 8.520,9 ha, tăng 3,2% (+262,7 ha); năng suất đạt 42,2 tạ/ha, tăng 8,2% (+3,2 tạ/ha); sản lượng đạt 35.974,7 tấn, tăng 11,7% (+3.755,7 tấn).
Diện tích rau các loại đạt 5.696,9 ha, giảm 1,4% (-81,1 ha); năng suất đạt 188,8 tạ/ha, giảm 4,3% (-8,4 tạ/ha); sản lượng đạt 107.530,8 tấn, giảm 5,6% (-6.385,9 tấn).
Diện tích đậu các loại đạt 1.150,1 ha, giảm 0,5 ha; năng suất đạt 17,9 tạ/ha, giảm 10,5% (-2,1 tạ/ha); sản lượng đạt 2.064,4 tấn, giảm 10,3% (-237,3 tấn).
Diện tích ớt cay đạt 2.178,1 ha, tăng 9,1% (+181,3 ha); năng suất đạt 201,9 tạ/ha, tăng 1,9% (+3,8 tạ/ha); sản lượng đạt 43.983,7 tấn, tăng 11,2% (+4.435 tấn).
Theo tiến độ đến ngày 15/6/2023, toàn tỉnh đã gieo sạ 41.545,4 ha lúa vụ Hè Thu, đạt 98,6% so với kế hoạch, giảm 2,6% (-1.126,6 ha) so với cùng kỳ. Tiến độ gieo trồng một số cây trồng cạn vụ Hè Thu: Cây ngô đạt 3.977,1 ha, tăng 12,5% (+442,7 ha); cây lạc đạt 1.831,7 ha, tăng 7,4% (+125,6 ha); rau các loại đạt 5.759,6 ha, tăng 13,8% (+697,6 ha); đậu các loại đạt 618,5 ha, giảm 7,8% (-52,4 ha).
Tổng diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 19.505,3 ha, giảm 0,8% (-149,7 ha) so với cùng kỳ. Trong đó, cây ăn quả đạt 5.505,4 ha, tăng 3,8% (+202,8 ha); cây công nghiệp đạt 13.160,7 ha, giảm 2,8% (-373,7 ha); riêng diện tích cây điều đạt 3.145,6 ha, giảm 12,3% (-440,6 ha), sản lượng đạt 1.956,3 tấn, giảm 8,4% (-180,2 ha). Một số loại cây trồng có múi sản lượng tăng so cùng kỳ: Cây cam sản lượng đạt 324,6 tấn, tăng 2,6% (+8,3 tấn); cây quýt đạt 159,8 tấn, tăng 7% (+10,5 tấn); cây chanh đạt 489,5 tấn, tăng 2,1% (+9,9 tấn); cây bưởi đạt 612,5 tấn, tăng 11,4% (+62,9 tấn).
b. Chăn nuôi
Tình hình chăn nuôi trong 6 tháng đầu năm 2023 phát triển tương đối ổn định. Tiếp tục đẩy mạnh tái đàn lợn, phát triển đàn bò thịt chất lượng cao, gắn với thực hiện có hiệu quả công tác tiêm phòng vaccine và phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, nhất là bệnh dịch tả lợn Châu Phi. Phong trào chăn nuôi bò vỗ béo trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh, nhất là nuôi bò lai; nhờ công tác lai tạo đàn bò người chăn nuôi vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đem lại hiệu quả khá.
Tính đến tháng 6/2023, đàn trâu của tỉnh ước đạt 16.286 con, giảm 6,7%       (-1.164 con) so với cùng kỳ. Đàn bò ước đạt 306.354 con, tăng 3,3% (+9.794 con); trong đó, bò sữa ước đạt 2.421 con, giảm 2% (-49 con). Đàn lợn (không kể lợn con chưa tách mẹ) ước đạt 667.843 con, tăng 0,2% (+1.520 con). Đàn gia cầm ước đạt 9.637,3 nghìn con, tăng 7,5% (+671 nghìn con); trong đó, đàn gà 7.962,3 nghìn con, tăng 14,1% (+985,2 nghìn con).
Sáu tháng đầu năm 2023, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 818 tấn, giảm 5,1% (-43,6 tấn); sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng ước đạt 21.407,5 tấn, tăng 4,4% (+900,1 tấn); sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 65.946,3 tấn, tăng 7,3% (+4.478,3 tấn); sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng ước đạt 14.649,1 tấn, tăng 6,2% (+851,8 tấn); trong đó, thịt gà hơi xuất chuồng 12.428,3 tấn, tăng 11% (+1.236 tấn) so với cùng kỳ.
6.2. Lâm nghiệp
Tình hình sản xuất lâm nghiệp trong tỉnh 6 tháng đầu năm 2023, tiếp tục đà tăng trưởng, chủ yếu khai thác gỗ rừng trồng tăng, do đến thời kỳ khai thác; diện tích rừng được quản lý chăm sóc, khoanh nuôi tái sinh toàn tỉnh ổn định. Công tác trồng, chăm sóc, quản lý và phòng chống cháy rừng được quan tâm và chỉ đạo kịp thời.
Công tác trồng rừng: Năm nay, thời tiết tương đối thuận lợi những tháng đầu năm, nên 6 tháng đầu năm 2023 diện tích trồng rừng đạt 777,3 ha; tăng 432,4 ha so với cùng kỳ.
Sáu tháng đầu năm 2023, diện tích rừng trồng đưa vào chăm sóc ước tính đạt 19.498,8 ha, giảm 1,2 ha; trong đó: rừng phòng hộ 296,3 ha, giảm 60,5% (-453,7 ha); rừng sản xuất 19.202,5 ha, tăng 2,4% (+452,5 ha). Nhìn chung diện tích rừng được chăm sóc sinh trưởng và phát triển tốt.
Tổng số gỗ khai thác toàn tỉnh 6 tháng đầu năm ước tính đạt 519.856 m3, tăng 2% (+10.256 m3) so với cùng kỳ. Sản lượng củi khai thác toàn tỉnh ước tính đạt 242.854 ster, tăng 0,4% (+869 ster) so cùng kỳ; khai thác chủ yếu từ các cành cây rừng trồng, khai thác củi từ nhành cây trong công đoạn chăm sóc tỉa nhành cây.
6.3. Thủy sản
Ngư dân đã tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật trong việc khai thác nên sản lượng theo các chuyến biển ngày càng tăng. Chính sách ưu đãi phát triển khai thác hải sản xa bờ của Nhà nước đã giúp ngư dân tích cực ra khơi. Do đó, tình hình sản xuất thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 tương đối ổn định.
Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn tỉnh ước đạt 142.291,3 tấn, tăng 2,8% (+3.868,3 tấn) so cùng kỳ.
- Đối với khai thác thủy sản: Giá dầu phục vụ cho hoạt động khai thác thủy sản biển giảm so với cùng kỳ, giảm chi phí, tác động tích cực đến tâm lý, bà con ngư dân mạnh dạn ra khơi khai thác. Toàn tỉnh có khoảng 5.014 tàu thuyền hoạt động khai thác. Tại các ngư trường trọng điểm, đội tàu khai thác xa bờ hoạt động có hiệu quả đặc biệt đối với các nghề như: nghề câu cá ngừ, lưới vây, mành chụp, câu mực (khai thác các loài như: cá ngừ, cá nục, chù ồ, mực xà, cá mè đen, cá chũa, mực xà…).
Sản lượng khai thác ước đạt 135.917,3 tấn, tăng 3% (+3.974,7 tấn); Sản lượng khai thác thủy sản biển ước đạt 134.438,5 tấn, tăng 3% (+3.918,9 tấn), riêng khai thác cá ngừ đại dương sản lượng đạt 7.392,7 tấn, giảm 0,2% (-12,4 tấn).
- Đối với nuôi trồng thủy sản, do diễn biến thời tiết nhiệt độ xuống thấp kéo dài ảnh hưởng đến một số diện tích thả nuôi trước lịch thời vụ. Các diện tích còn lại người nuôi thực hiện tốt công tác chuẩn bị ao và lựa chọn con giống đạt chất lượng; tập trung chăm sóc tôm nuôi. Ngành Thủy sản tiếp tục khuyến khích nuôi tôm chất lượng cao và đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi ao hồ từ quảng canh cải tiến sang thâm canh, bán thâm canh; tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh Dự án Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Mỹ Thành nên sản lượng tôm thẻ chân trắng tăng khá.
Sản lượng nuôi trồng ước đạt 6.374 tấn, giảm 1,6% (-106,4 tấn), riêng tôm thẻ chân trắng ước đạt 4.163,3 tấn, tăng 7% (+273,5 tấn).
Tình hình thực hiện Quyết định 48/2010/QĐ-TTg
Từ đầu năm đến nay, đã tiếp nhận 7.561 hồ sơ (6.104 hồ sơ hỗ trợ nhiên liệu và 1.457 hồ sơ hỗ trợ bảo hiểm). Tổ chức thẩm định 3.496 hồ sơ (3.006 hồ sơ hỗ trợ nhiên liệu, 489 hồ sơ hỗ trợ bảo hiểm và 01 hồ sơ hỗ trợ máy HF). UBND tỉnh phê duyệt hỗ trợ cho 3.102 hồ sơ với 237,5 tỷ đồng (2.612 hồ sơ đề nghị hỗ trợ nhiên liệu, 489 hồ sơ đề nghị hỗ trợ bảo hiểm, 01 hồ sơ hỗ trợ máy HF).
7. Sản xuất công nghiệp
Trong những năm qua, sản xuất công nghiệp luôn được xem là động lực chính của nền kinh tế tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, năm 2023 sản xuất công nghiệp gặp khó khăn và dự báo các doanh nghiệp sẽ còn nhiều thử thách trong thời gian đến do lãi suất ngân hàng cao, lạm phát các nước trên thế giới tăng cao buộc người dân thắt chặt chi tiêu dẫn đến sức mua giảm, xuất khẩu tại các thị trường sụt giảm theo.
7.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 0,08% so với cùng kỳ, đây là mức tăng thấp nhất trong 5 năm trở lại đây.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng 2,69%. Trong đó, khai thác quặng kim loại giảm 7,24%, do một số mỏ đã cạn nguồn quặng và một số mỏ đã hết hạn khai thác; hoạt động khai khoáng khác tăng 4,55%.
Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,32%. Nguyên nhân do chịu tác động bởi 3 nhóm ngành lớn đang giảm sâu là Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, Dệt và Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế.
Tình hình sản xuất ở một số ngành chủ yếu của tỉnh:
- Ngành chế biến thực phẩm tăng 6,62% do một số sản phẩm tiêu thụ nội địa tăng như:
 Thức ăn gia súc tăng 8,9%; thức ăn gia cầm tăng 16,87% (trong đó, Nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi Hải Long Bình Định của Cty LANKING NANO PTE. LTD đi vào hoạt động giai đoạn 1 vào cuối năm 2022, góp phần tăng sản lượng thức ăn chăn nuôi).
 Nhà máy Sữa Bình Định tiếp tục duy trì sản xuất ổn định nên sản phẩm sữa tăng 9,37%; mặt hàng sữa thuộc nhóm hàng tiêu dùng nhanh có thời hạn sử dụng ngắn nên Nhà máy Sữa Bình Định cân đối kế hoạch sản xuất đảm bảo lượng tồn kho không vượt giới hạn cho phép nên sản lượng sản xuất chỉ tăng nhẹ. Để tạo duy trì tốc độ tăng sản lượng sữa trong thời gian tới, bên cạnh việc tập trung đầu tư dây chuyền sữa hộp cô đặc, dự kiến hoạt động vào cuối năm 2023, Nhà máy Sữa Bình Định cần phối hợp chặt chẽ với các trường học trên địa bàn tỉnh triển khai thực hiện Chương trình Sức khỏe học đường giai đoạn 2023-2025 trên địa bàn tỉnh nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu.
 Tinh bột sắn tăng 11,64%. Từ cuối tháng 3/2023, vụ sắn vào thời điểm kết thúc vụ, do đó các doanh nghiệp chế biến tinh bột sắn đang tích cực sản xuất trước khi kết thúc mùa vụ. Mặt khác, thị trường Trung Quốc mở cửa trở lại, đã tăng thu mua tinh bột sắn từ Việt Nam, thúc đẩy sản lượng sản xuất tinh bột sắn tăng trong 6 tháng năm 2023.
Tuy nhiên, nhóm sản phẩm thủy sản giảm mạnh: Phi lê cá giảm 18,5%, tôm đông lạnh giảm 27,71%. Trong 6 tháng đầu năm 2023, nhóm ngành thủy sản tiếp tục gặp khó khăn do lạm phát tăng cao; rào cản thẻ vàng IUU, thị trường Châu Âu giảm sức mua, trong khi đó thị trường Châu Á có sản lượng tiêu thụ thấp, các doanh nghiệp chế biến thủy sản Bình Định vẫn đang sản xuất các đơn hàng cũ từ quý 4 năm 2022 chuyển sang, chưa ký được các đơn hàng xuất khẩu mới. Bên cạnh đó, doanh nghiệp chế biến tôm đông lạnh gặp khó khăn trong nguồn nguyên liệu đầu vào và cạnh tranh giá thu mua nguyên liệu. Hiện nay, giá tôm nguyên liệu đang có xu hướng giảm. Dự báo trong thời gian tới, ngành này tiếp tục gặp khó khăn, sản lượng có xu hướng tiếp tục giảm.
- Sản xuất đồ uống tăng 3,6%, trong đó, sản lượng bia đóng chai tăng 4,43%; nước uống có vị hoa quả tăng 14,41% do hoạt động dịch vụ ăn uống, nhà hàng, khách sạn phát triển mạnh. Riêng đối với nước yến giảm 16,6% do Cty Cổ phần Tingco Bình Định khó khăn về thị trường tiêu thụ; so với cùng kỳ, sản lượng sản xuất giảm sút do sản phẩm của công ty phục vụ chủ yếu cho đối tượng lao động trong các nhà máy, xí nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng do ít đơn hàng hoặc không ký được đơn hàng mới, nhiều ngành cắt giảm lao động hoặc giảm thời gian làm việc. Dự báo trong thời gian tới, hoạt động dịch vụ ăn uống, nhà hàng khách sạn tiếp tục phát triển mạnh do rơi vào dịp hè; do đó, sản lượng bia, nước khoáng, nước hoa quả tiếp tục tăng.
 - Nhóm ngành Sản xuất trang phục tăng 8,27%. Hiện nay, thị trường tiêu thụ nội địa tương đối ổn định, tuy nhiên, xuất khẩu có chiều hướng giảm do ảnh hưởng tình hình chung của thế giới. Các doanh nghiệp tại Bình Định chủ yếu là xuất khẩu các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đài Loan. Các đơn hàng vẫn còn từ năm 2022 đến hết quý I/2023, các tháng quý II/2023 có xu hướng giảm dần vì thị trường còn nhiều biến động và khó khăn, các doanh nghiệp cần chủ động tận dụng hiệp định thương mại tự do (FTA) tìm hướng đi mới cho ngành dệt may.
- Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 12,51%. Ngành này tăng chủ yếu do xuất khẩu mặt hàng viên nén gỗ và dăm gỗ tăng cao. Trong những tháng 4, 5/2023, ngành này gặp khó khăn vì thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc đang ép giá dẫn đến sản xuất ngày càng thu hẹp. Giá bán dăm gỗ sản phẩm hiện ở mức 160-165 USD/1 tấn dăm khô (giảm 20-30 USD/1 tấn dăm khô so cuối năm 2022). Trong tháng 6/2023, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu có đơn hàng mới, các doanh nghiệp tập trung thu mua gỗ nguyên liệu để phục vụ đủ cho sản xuất trở lại.
- Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 26,25%. Trong đó, dược phẩm khác chưa phân vào đâu tăng 41,35%; dung dịch đạm huyết thanh tăng 6,20%. Cty CP Dược - TTB Y tế Bình Định và Cty CP FKB (nhất là Cty CP Dược - TTB Y tế Bình Định) đã hoạt động sản xuất ổn định (bổ sung thêm 1 nhà máy sản xuất thuốc ung thư vào cuối năm 2022), đáp ứng mục tiêu tăng trưởng vì đã được gia hạn đăng ký lưu hành các loại thuốc, nên nhận được nhiều đơn hàng ngay từ đầu năm, thúc đẩy doanh nghiệp dược phẩm đẩy mạnh, tất cả các dây chuyền đều sản xuất để đáp ứng nhu cầu cho thị trường.
- Sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 28,22% do Cty CP Giày Bình Định nhận ít đơn hàng, chỉ sản xuất cầm chừng. Từ tháng 6/2023 đến hết tháng 9/2023, Công ty CP Giày Bình Định hết đơn hàng, thu hẹp sản xuất, cắt giảm lao động (650 lao động). Dự báo quý III/2023 sản xuất giày dép có xu hướng tiếp tục giảm so với cùng kỳ.
Về dài hạn, ngành giày dép đứng trước các thách thức lớn về yêu cầu chuyển đổi mạnh mẽ mô hình sản xuất theo hướng bền vững, xanh, tuần hoàn và đáp ứng các quy định mới liên quan đến lao động, nguồn gốc xuất xứ, khả năng tái chế của sản phẩm từ các thị trường chủ chốt như Mỹ, EU.
 - Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 16,11%, chủ yếu do sản phẩm tấm lợp bằng kim loại giảm 46,31% (Công ty TNHH MTV Hoa Sen - Nhơn Hội cắt giảm sản lượng, chỉ sản xuất tiêu thụ nội địa, không xuất khẩu và chờ ý kiến cân đối chỉ tiêu sản xuất từ Tập đoàn Hoa Sen), cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại giảm 38,7%. Vì bất động sản đang đóng băng đã tác động đến lĩnh vực xây dựng, ảnh hưởng đáng kể đối với nhu cầu thép trong năm 2023. Mặc dù giải ngân đầu tư công được kỳ vọng sẽ tăng tốc trong quý tới, dự báo tổng nhu cầu thép trong nước chưa thể đạt mức như kỳ vọng.
- Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 20,05%. Đây là nhóm ngành cấp 2 chiếm tỷ trọng cao thứ 2 của ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo, đang giảm mạnh đã ảnh hưởng đến một số ngành công nghiệp phụ trợ, tác động rất lớn đến chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp.
 Chỉ số sản xuất ngành sản xuất và phân phối điện tăng 2,24%. Trong đó, sản lượng điện sản xuất tăng 2,79%; điện thương phẩm tăng 0,09% so cùng kỳ (Sản lượng điện tiêu thụ phục vụ sản xuất kinh doanh chiếm 53%, giảm 6,6%; phục vụ quản lý, tiêu dùng, phụ tải khác chiếm 47%, tăng 28,6%)
Chỉ số sản xuất ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 12,04%. Trong đó, khai thác, xử lý và cung cấp nước tăng 4,26%; Thoát nước và xử lý nước thải tăng 3,14%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác thải tăng 22,71% do UBND Tỉnh bổ sung kinh phí để tăng tần suất và mở rộng phạm vi thu gom trên địa bàn tỉnh.
7.2. Chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Chỉ số tiêu thụ sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2023 giảm 4,44% so với tháng trước do nhiều ngành chiếm tỷ trọng lớn có lượng tiêu thụ giảm trong tháng 6 như: Sản xuất trang phục giảm 21,32%; Da và sản phẩm có liên quan giảm 43,15%; Sản xuất hóa chất giảm 27,32%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 24,10%. Một số ít ngành có chỉ số tiêu thụ tăng như: Chế biến thực phẩm tăng 2,13%; Sản xuất đồ uống tăng 5,37%; Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 16,03% (do có đơn hàng tiêu thụ cao trong tháng 6/2023).
Chỉ số tiêu thụ sản phẩm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2023 giảm 0,74% so với cùng kỳ. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số tiêu thụ giảm 2,53% so cùng kỳ do một số nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn giảm mạnh như: Dệt giảm 29,43%; Sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 28,36%; Giường, tủ, bàn, ghế giảm 22,55%.
7.3. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2023 tương đối giữ ổn định so với tháng trước, tăng 1,16%. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm như: Chế biến thực phẩm giảm 1,54%; Dệt giảm 19,9%; Sản xuất hóa chất giảm 3,99%. Còn lại số ít ngành có chỉ số tồn kho cao so với tháng trước như: Đồ uống tăng 26,89% (trữ hàng phục vụ thị trường mùa hè);  Trang phục tăng 3,64%; Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 9,9%.
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 6 năm 2023 tăng 11,78% so với cùng kỳ. Trong đó, nhóm ngành chiếm tỷ trọng lớn tăng cao tác động làm chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao, như: Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 30,29%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 36,76%; Sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 25,77%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,59%.
7.4. Chỉ số sử dụng lao động
Chỉ số sử dụng lao động tháng 6 năm 2023 giảm 3,11% so với tháng trước. Trong đó, Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 3,37%, chủ yếu giảm một số ngành như: Sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 33,99%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 10,48%. Các ngành Sản xuất và phân phối điện; Cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải; Khai khoáng lao động tương đối ổn định.
Chỉ số sử dụng lao động tháng 6 năm 2023 giảm 9,27% so cùng kỳ. Mức giảm mạnh nhất trong nhiều năm gần đây. Trong đó, ngành khai khoáng giảm 9,25% do thu hẹp sản xuất; Công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 10,05% (nguyên nhân do ngành chiếm tỷ trọng lao động cao nhất là ngành Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế (chiếm gần 40%) giảm 20,17%, ngành Sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 38,05%, ngành Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (chiếm 3%) giảm 17,95%); Sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 2,86%; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,19%.
Theo loại hình doanh nghiệp, so với cùng kỳ chỉ số sử dụng lao động tháng 6 năm 2023 của khối doanh nghiệp Nhà nước giảm 0,62%; doanh nghiệp ngoài Nhà nước giảm 11,07%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,2%.
8. Thương mại, dịch vụ
8.1. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6/2022 ước đạt 8.887,8 tỷ đồng, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 21,7% so cùng kỳ, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 6.839,6 tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 15,9% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 1.336,4 tỷ đồng, tăng 14,3% với tháng trước và tăng 55% so cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành đạt 60,3 tỷ đồng, tăng 21,7% so với tháng trước và tăng 62% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác đạt 651,5 tỷ đồng, tăng 9,2% so với tháng trước và tăng 29,9% so cùng kỳ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 50.383,8 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ.
Xét theo ngành hoạt động, doanh thu bán lẻ hàng hóa 6 tháng đầu năm 2023 ước tính đạt 40.453,7 tỷ đồng, chiếm 80,3% tổng mức và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 11,1%; may mặc tăng 4,7%; đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 2%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 36,8%; ô tô các loại tăng 28,8%; xăng dầu tăng 37,5%; nhiên liệu khác tăng 29,4%...
Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 6 tháng đầu năm ước tính đạt 6.444,9 tỷ đồng, chiếm 12,8% tổng mức, tăng 31,4% so với cùng kỳ (quý I đạt 2.878,3 tỷ đồng, tăng 20,9%, quý II đạt 3.566,6 tỷ đồng, tăng 41,2%), bao gồm: Doanh thu dịch vụ lưu trú đạt 981,6 tỷ đồng, tăng 35,9%; doanh thu dịch vụ ăn uống đạt 5.463,3 tỷ đồng, tăng 30,6%.
Sáu tháng đầu năm 2023, ngành dịch vụ tiếp tục có sự tăng trưởng cao so với cùng kỳ. Giải chạy VnExpress Marathon trở lại Quy Nhơn trong tháng 6/2023, có số lượng vận động viên khoảng 10.000 người đến từ các tỉnh, thành phố trong cả nước tham gia, góp phần lớn trong việc quảng bá và phát triển du lịch Bình Định. Các khách sạn và nhà nghỉ tại thành phố Quy Nhơn dự kiến sẽ hoạt động hết công suất trong các ngày trước và sau diễn ra giải.
Hiện nay, đang là thời điểm bước vào mùa du lịch của năm, Bình Định trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch nhờ cảnh đẹp, giao thông thuận lợi, giá cả hợp lý... đã thúc đẩy du lịch lữ hành phát triển mạnh.
Doanh thu dịch vụ lữ hành 6 tháng đầu năm 2023 ước tính đạt 151,5 tỷ đồng, chiếm 0,3% tổng mức, tăng 86,6% so với cùng kỳ.
UBND tỉnh đã Tổ chức Hội nghị quảng bá, xúc tiến du lịch giữa tỉnh Bình Định và Thành phố Hồ Chí Minh năm 2023; đẩy mạnh công tác quảng bá xúc tiến, mở rộng thị trường, thu hút khách du lịch, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bình Định và hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá hình ảnh và phát triển kinh doanh tại thị trường Bình Định. Doanh thu hoạt động dịch vụ khác 6 tháng đầu năm 2023 ước tính đạt 3.333,7 tỷ đồng, chiếm 6,6% tổng mức, tăng 15,2% so với cùng kỳ, cụ thể: Dịch vụ kinh doanh bất động sản đạt 752,2 tỷ đồng, giảm 27,2%; ngành giáo dục và đào tạo đạt 166,2 tỷ đồng, tăng 64,8%; y tế và trợ giúp xã hội đạt 425,6 tỷ đồng, tăng 50,8%; dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 561,3 tỷ đồng, tăng 28,5%; dịch vụ khác đạt 923,4 tỷ đồng, tăng 33,5%.
8.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa
a. Xuất khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 6/2023 ước đạt 114,1 triệu USD, giảm 5,8% so với tháng trước và giảm 17,8% so cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước đạt 730 triệu USD, giảm 14,4% so cùng kỳ ; trong đó: Kinh tế Nhà nước ước đạt 29,1 triệu USD, tăng 28,4%, chiếm 4%; Kinh tế tư nhân ước đạt 606,4 triệu USD, giảm 17,7%, chiếm 83,1%; Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 94,5 triệu USD, tăng 1,1%, chiếm 12,9% so cùng kỳ. Sáu tháng đầu năm 2023, tình hình xuất khẩu của các doanh nghiệp không khả quan, nhất là mặt hàng thủy sản, sản phẩm bàn ghế nhựa giả mây, bàn ghế gỗ,... Mặc dù, đây là thời điểm các doanh nghiệp nghỉ hè nhưng vẫn nỗ lực tìm kiếm đơn hàng xuất khẩu để duy trì lực lượng lao động của đơn vị.
- Sáu tháng đầu năm 2023, nhóm hàng thủy sản ước đạt 55,9 triệu USD, chỉ bằng 66,7% so cùng kỳ, do ảnh hưởng lạm phát thế giới nên người tiêu dùng đã thắt chặt chi tiêu. Các doanh nghiệp hoạt động ngành thủy sản cố gắng cầm cự, duy trì sản xuất để duy trì việc làm cho người lao động, bảo toàn vốn và chuẩn bị đón nhận cơ hội khi thị trường dự kiến sẽ khôi phục trong quý III/2023.
- Nhóm gạo ước đạt 29,1 triệu USD, tăng 28,4% so cùng kỳ. Sáu tháng đầu năm 2023, mặt hàng này là điểm sáng về hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu gạo đang có nhiều tín hiệu tích cực do nhu cầu dự trữ lương thực của thế giới tăng mạnh, doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này được lợi thế trong khi các mặt hàng xuất khẩu khác bị ảnh hưởng nặng nề, do ảnh hưởng thời tiết El Nino nên các nước đang thu mua giá gạo rất cao.
- Nhóm hàng sắn và sản phẩm từ sắn ước đạt 41,5 triệu USD, tăng 40,1% so cùng kỳ, chủ yếu xuất khẩu tinh bột và phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, mặt hàng này bị cạnh tranh bởi thị trường Thái Lan, sắn của Thái Lan xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc được hưởng thuế suất 0%, trong khi sắn của Việt Nam phải chịu thuế suất 13%, đó cũng là yếu tố bất lợi cho xuất khẩu nhóm này sang thị trường chủ lực của Việt Nam.
  • Sản phẩm từ chất dẻo ước đạt 89,6 triệu USD, giảm 22% so cùng kỳ, các công ty sản xuất bàn ghế nhựa giả mây có dấu hiệu bão hòa và chững lại. Người dân các nước thắt chặt chi tiêu do lạm phát tăng cao.
- Hàng dệt may ước đạt 134,3 triệu USD, tăng 3,2% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp tại Bình Định chủ yếu xuất khẩu sản phẩm này sang các thị trường ổn định như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Đài Loan.
- Mặt hàng gỗ ước đạt 148,7 triệu USD, giảm 0,1% so cùng kỳ. Mặt hàng này đang xuất khẩu giảm do giá gỗ dăm và viên nén gỗ giảm mạnh. Nếu như cuối năm 2022, giá gỗ rừng trồng ở Bình Định còn ở mức 1,8 triệu đồng/tấn, hiện giá thu mua tại các nhà máy chỉ còn 1,2 triệu đồng/tấn, trở về mức giá cũ của năm 2021, nhưng các nhà máy cũng hạn chế mua số lượng lớn, chỉ mua cầm chừng để duy trì sản xuất.
- Nhóm sản phẩm bàn ghế gỗ ước đạt 203,8 triệu USD, bằng 69,9% so cùng kỳ. Do tình hình lạm phát toàn cầu nên sức mua giảm mạnh, dẫn đến đơn hàng của ngành gỗ giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2022. Đây là thực tế rất khó khăn đối với ngành gỗ. Hiện tại, những doanh nghiệp có đơn hàng chủ yếu là những đơn hàng nhỏ và chỉ nhận được các đơn hàng tới tháng 6/2023.
Xuất khẩu trực tiếp 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 727,9 triệu USD, chiếm 99,7% kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng được xuất khẩu đến 91 quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc 5 châu lục. Trong đó, Châu Á đạt 273,9 triệu USD, chiếm 37,6%; Châu Âu đạt 140,5 triệu USD, chiếm 19,3%; Châu Mỹ đạt 300,5 triệu USD, chiếm 41,3%. Chia theo quốc gia, Nhật Bản ước đạt 126,4 triệu USD, chiếm 17,4%; Trung Quốc ước đạt 74,1 triệu USD, chiếm 10,2%; Đức ước đạt 26,1 triệu USD, chiếm 3,6%; Mỹ ước đạt 280,7 triệu USD, chiếm 38,6% trong kim ngạch xuất khẩu trực tiếp.
b. Nhập khẩu hàng hóa
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 6/2023 ước đạt 30,9 triệu USD, giảm 38,8% so với tháng trước và giảm 35,5% so cùng kỳ.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 200,6 triệu USD, giảm 13,4% so cùng kỳ; trong đó: Khu vực kinh tế tư nhân ước đạt 169,6 triệu USD, giảm 7,3% so cùng kỳ, chiếm 84,6% kim ngạch nhập khẩu; Khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài ước đạt 31 triệu USD, giảm 36,4% so cùng kỳ, chiếm 15,4% kim ngạch nhập khẩu. Do giá vận chuyển cao, lãi suất tăng,… nên các công ty chủ yếu mua hàng trong nước để sản xuất trong thời gian này.  
  • Nhóm nguyên liệu thủy sản ước đạt 39,8 triệu USD, giảm 19,1% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đã tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước để chế biến xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, sự bất ổn định nguồn nguyên liệu, nhất là nguồn lợi khai thác ngày càng cạn kiệt, khiến các doanh nghiệp phải tìm giải pháp nhập khẩu thêm nguyên liệu từ các nước khác để chế biến xuất khẩu, giữ vững thị trường và duy trì sản xuất giá nhập khẩu cao.
  • Nhóm thức ăn gia súc và nguyên liệu ước đạt 15,3 triệu USD, bằng 41,6% so cùng kỳ do giá chi phí nguyên liệu tăng cao, sản phẩm trong nước đang mùa thu hoạch nên doanh nghiệp hạn chế nhập khẩu, đồng thời do giá con giống giảm mạnh nên nông dân tái đàn chậm.
  •  Nhóm gỗ nguyên liệu ước đạt 14,6 triệu USD, bằng 52,9% so cùng kỳ, do ngành sản xuất bàn ghế không xuất khẩu được nên nhập khẩu mặt hàng này cũng không khả quan.
Nhóm nguyên liệu dược phẩm ước đạt 10,6 triệu USD, tăng 54,5% so cùng kỳ.
8.3. Vận tải hành khách và hàng hóa
a. Vận tải hành khách
Tổng lượng vận chuyển hành khách bằng đường bộ và đường thuỷ tháng 6/2023 ước đạt 3.957,4 nghìn hành khách, luân chuyển 385,6 triệu HK.km. So với tháng trước, vận chuyển tăng 33,4%, luân chuyển tăng 30,6%. So cùng kỳ, vận chuyển tăng 34,3%, luân chuyển tăng 32,4%.
Sáu tháng đầu năm 2023, tổng lượng vận chuyển hành khách bằng đường bộ và đường thuỷ ước đạt 20.710,5 nghìn hành khách, luân chuyển 2.015,7 triệu HK.km. So cùng kỳ, vận chuyển tăng 10,5%, luân chuyển tăng 10,8%.
b. Vận tải hàng hóa
Tổng lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ và đường thuỷ tháng 6/2023 ước đạt 2.968,8 nghìn tấn, luân chuyển 418,7 triệu tấn.km. So tháng trước, vận chuyển tăng 13,3%, luân chuyển tăng 11,9%. So cùng kỳ, vận chuyển tăng 10%, luân chuyển tăng 8,8%.
Sáu tháng đầu năm 2023, tổng lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ và đường thuỷ ước đạt 16.978 nghìn tấn, luân chuyển 2.408,7 triệu tấn.km; so cùng kỳ, vận chuyển tăng 1,7%, luân chuyển tăng 1,7%.
Hàng hoá thông qua cảng biển tại địa phương trong tháng 6/2023 ước đạt 985 nghìn TTQ, giảm 1,7% so với tháng trước, giảm 21,6% so với cùng kỳ. Hàng hoá thông qua cảng biển tại địa phương Tính chung 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 5.301,2 nghìn TTQ giảm 25,8% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân hàng hóa thông qua cảng biển sụt giảm là do hoạt động thương mại và xuất nhập khẩu hàng hóa trong nước tiếp tục chịu sự tác động suy thoái kinh tế diễn ra ở nhiều quốc gia, làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn và do ảnh hưởng của cuộc xung đột Nga-Ukraina, dẫn đến đứt gãy chuỗi cung ứng nhiều ngành hàng.
c. Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải
Tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, đường thủy và bưu chính, chuyển phát tháng 6/2023 ước đạt 905,5 tỷ đồng, tăng 1,7% so tháng trước, tăng 13,6% so cùng kỳ. Trong đó, vận tải hành khách đạt 171,3 tỷ đồng, tăng 11,9% và tăng 41,0% so với cùng kỳ; vận tải hàng hóa đạt 469,4 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 9,9% so với cùng kỳ; dịch vụ kho bãi và hoạt động hỗ trợ vận tải khác đạt 262,5 tỷ đồng, giảm 4,6% so với tháng trước và tăng 6,4% so với cùng kỳ; bưu chính, chuyển phát đạt 2,4 tỷ đồng, tăng 3,9% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước.
Sáu tháng đầu năm 2023, tổng doanh thu vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, đường thủy và bưu chính, chuyển phát ước đạt 5.202,7 tỷ đồng, tăng 11,7% so cùng kỳ. Trong đó, vận tải hành khách đạt 877,5 tỷ đồng, tăng 38,8%, chiếm 16,9% so với tổng doanh thu; vận tải hàng hóa đạt 2.759,3 tỷ đồng, tăng 8,1%, chiếm tỷ trọng cao nhất 53,0%; Dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 1.552,5 tỷ đồng, tăng 6,4%, chiếm 29,8%; Doanh thu bưu chính, chuyển phát đạt 13,5 tỷ đồng, tăng 9,3%, chiếm tỷ trọng thấp nhất 0,3% trong tổng doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải; bưu chính chuyển phát.
9. Các vấn đề xã hội
9.1. Tình hình lao động việc làm
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên quý II năm 2023 là 850.134 người, tăng hơn 2.143 người so với quý trước và tăng 53.628 người so với cùng kỳ năm trước. So với quý trước, lực lượng lao động ở cả hai khu vực thành thị và nông thôn đều tăng tương ứng (755 người và 1.388 người), lực lượng lao động nam và nữ tăng tương ứng (416 lao động nam và 1.727 lao động nữ).
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động so với dân số quý II năm 2023 là 56,5% tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và không thay đổi so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nam là 59,6% và tỷ lệ này của nữ là 53,4%. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 56,8%, trong khi đó tỷ lệ này ở nông thôn là 56,3%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý II năm 2023 ước đạt 25,0% tăng 0,1 điểm phần trăm so với quý trước và tăng 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Ước tính tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý II năm 2023 toàn tỉnh là 2,3%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý trước. Nguyên nhân các ngành sử dụng nhiều lao động như công nghiệp sản xuất gỗ, dệt may, da giày, thủy sản... đang gặp nhiều khó khăn, thiếu đơn hàng xuất khẩu, một số doanh nghiệp chỉ hoạt động cầm chừng nên đã cắt giảm lao động.
9.2. Đời sống dân cư và an sinh xã hội
a. Đời sống cán bộ, công nhân viên chức, người lao động hưởng lương
Trong bốn năm qua, Chính phủ đã tập trung toàn bộ nguồn lực cho công tác phòng, chống dịch Covid-19, cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc tăng lương theo lộ trình chưa triển khai thực hiện. Mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hưởng lương từ ngân sách Nhà nước vẫn như năm 2019. Vì vậy, đời sống của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động hưởng lương chưa được cải thiện hơn so với cùng kỳ năm trước.
Thực hiện Nghị định số 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022 quy định mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động; theo đó, từ ngày 01/7/2022 áp dụng mức lương tối thiểu vùng năm 2022 tăng bình quân 6% (tương ứng tăng từ 180.000 đồng - 260.000 đồng) so với mức lương tối thiểu vùng năm 2021. Vì vậy, đời sống của người lao động làm việc theo hợp đồng lao động cải thiện hơn so với năm trước.
b. Giải quyết việc làm, hỗ trợ lao động thất nghiệp
Cho vay giải quyết việc làm: Đã phân bổ nguồn vốn bổ sung 197 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Trung ương và địa phương. Theo báo cáo của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, 06 tháng đầu năm 2023, các địa phương phê duyệt 6.200 dự án với tổng số tiền cho vay là 310 tỷ đồng; giải quyết việc làm cho 7.100 lao động (tăng 2,2 lần so với cùng kỳ).
Trung tâm Dịch vụ việc làm Bình Định tổ chức 09 phiên giao dịch việc làm tại sàn giao dịch Quy Nhơn và các điểm giao dịch vệ tinh; 34 phiên giao dịch việc làm lưu động; 04 phiên giao dịch việc làm trực tuyến với 434 lượt doanh nghiệp và 4.244 lượt người tham gia. Hệ thống dịch vụ việc làm của tỉnh tổ chức tư vấn giới thiệu việc làm và học nghề cho 43.375 lượt người; cung ứng và giới thiệu việc làm cho 1.967 người.
Hệ thống dịch vụ việc làm của tỉnh tổ chức tư vấn giới thiệu việc làm và học nghề cho 43.375 lượt người; cung ứng và giới thiệu việc làm cho 1.967 người.
Sáu tháng đầu năm 2023, giải quyết việc làm cho 17.037 người (có 595 lao động đi làm việc tại nước ngoài), đạt 59,78% kế hoạch.
Tính đến 30/5/2023, số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp 4.710 người, tăng 20,1% so với cùng kỳ năm 2022. Quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 4.125 người.
c.  Công tác giảm nghèo, bảo trợ xã hội, chính sách với người có công
Nhân dịp Tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023, UBND tỉnh hỗ trợ tiền tặng 19.805 hộ nghèo (mức quà tặng 500.000 đồng/hộ), kinh phí trên 9,9 tỷ đồng.
Hỗ trợ tiền điện cho 22.270 hộ nghèo, hộ chính sách xã hội, tổng số tiền3.699 triệu đồng; Thực hiện cấp 296.024  thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng bảo trợ xã hội; người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vùng khó khăn.
Tiếp tục thực hiện chính sách trợ giúp xã hội theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP ngày 15/3/2021 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh. Đến nay, toàn tỉnh có 98.597 đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, kinh phí hơn 701 tỷ đồng. Tại 02 cơ sở bảo trợ xã hội công lập chăm sóc, nuôi dưỡng 858 đối tượng.
Trong 06 tháng đầu năm 2023, đã giải quyết hưởng chế độ ưu đãi cho 767 người có công với cách mạng và thân nhân. Nhân dịp tết Nguyên đán Quý Mão - 2023, các địa phương đã trao tặng 45.416 suất quà của Chủ tịch nước cho các đối tượng có công cách mạng với tổng số tiền trên 13,7 tỷ đồng.
9.3. Giáo dục
Trong tháng 6/2023, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 năm học 2023-2024. Tổ chức xét tuyển vào lớp 10 cho các trường Trung học phổ thông công lập của 3 huyện miền núi, các trường Trung học phổ thông công lập tự chủ và tư thục. Chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông năm học 2022-2023. Chuẩn bị các điều kiện để tổ chức bồi dưỡng chính trị và chuyên môn cho giáo viên trong hè. Hoàn thiện danh mục sách giáo khoa lớp 4, 8, 11 sử dụng từ năm học 2023-2024 trên địa bàn tỉnh Bình Định. Hoàn thiện dự thảo tài liệu Giáo dục địa phương lớp 8 và lớp 11.
9.4. Y tế
Ngành Y tế tỉnh Bình Định tiếp tục tuyên truyền người dân phòng, chống dịch bệnh Covid-19, sốt xuất huyết, tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19 bằng nhiều hình thức như phát sóng các thông điệp trên đài truyền hình, phát thanh; tổ chức tuyên truyền trong trường học; phối hợp các ngành, đoàn thể tuyên truyền trực tiếp đến các hộ gia đình; tăng cường giám sát chặt chẽ dịch bệnh trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các đối tượng nhập cảnh từ các khu vực đang bùng phát dịch, từ các nơi xuất hiện các biến thể mới, nguy hiểm của vi rút SARS-CoV-2 về tỉnh.
Tổ chức giám sát tình hình bệnh sốt xuất huyết, bệnh tay chân miệng và các bệnh truyền nhiễm khác tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh. Giám sát các trường hợp viêm phổi nặng nghi do virus gây ra. Tổ chức phun hóa chất diệt muỗi phòng chống bệnh sốt xuất huyết.
Tình hình một số dịch bệnh trên địa bàn tỉnh như sau:
- Dịch bệnh Covid-19: Từ lúc phát hiện dịch trên địa bàn tỉnh đến nay có 141.9795 ca, tử vong 317 ca.
- Bệnh sốt xuất huyết: Trong tháng ghi nhận 173 ca mắc mới, lũy kế sáu tháng đầu nằm ghi nhận 1.395 ca mắc mới, tăng 127,94% (+783 ca) so với cùng kỳ năm trước; không có trường hợp tử vong, bằng năm 2022. Trong tháng phát hiện và xử lý 11 ổ dịch sốt xuất huyết, lũy kế sáu tháng đầu năm phát hiện và xử lý 74 ổ dịch sốt xuất huyết, giảm 40,32% (-50 ổ dịch) so với cùng kỳ năm trước.
- Bệnh tay - chân - miệng: Trong tháng ghi nhận 08 ca mắc mới, lũy kế sáu tháng đầu năm 2023 ghi nhận 13 ca mắc, giảm 87% (-87 ca) so với cùng kỳ năm trước.
- Bệnh sốt rét: Trong tháng 6/2023 ghi nhận 01 ca mắc sốt rét tại huyện Vĩnh Thạnh, tăng 01 ca so với cùng kỳ năm 2022.
- Bệnh Cúm A/H5N1, Cúm A/H7N9: Trong tháng 6/2023 không ghi nhận trường hợp mắc bệnh. Lũy kế năm tháng đầu năm, ghi nhận 01 trường hợp, tăng 01 trường hợp so với cùng kỳ năm trước.
- Bệnh sốt phát ban nghi sởi/sởi/rubella, bệnh ho gà, bạch hầu, bệnh dại, bệnh đậu mùa khỉ: Từ đầu năm đến nay không ghi nhận trường  hợp mắc bệnh.
9.5. Hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch
Trong tháng 6/2023, nhiều hoạt động văn hóa, thể dục và thể thao trên địa bàn tỉnh Bình Định diễn ra rất sôi nổi.
Nổi bật nhất là sự kiện VnExpress Marathon Spakling Quy Nhơn 2023 chính thức khởi tranh các nội dung thi đấu. Hơn 10.000 vận động viên chuyên nghiệp và nghiệp dư cùng tham gia ngày hội chạy bộ ở 4 cự ly: 42 km, 21 km, 10 km và 5 km. Đây là lần thứ 4 VnExpress Marathon được tổ chức tại thành phố Quy Nhơn. Trước đó, vào ngày 10/6 đã diễn ra giải chạy dành cho trẻ từ 6 - 10 tuổi, với sự tham gia của khoảng 2.600 vận động viên nhí.
Sở Văn hóa và Thể thao Bình Định tổ chức lễ khai mạc hè, ngày Olympic trẻ em và phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2023.
9.6. Tai nạn giao thông
Trong tháng 6/2023 (từ ngày 15/5/2023 đến ngày 14/6/2023), trên địa bàn tỉnh xảy ra 9 vụ tai nạn giao thông, làm 8 người chết và 1 người bị thương. Số vụ tai nạn giao thông tháng Sáu bằng tháng trước, số người chết tăng 60% (+3 người) và số người bị thương giảm 87,5% (-7 người). So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông tháng Sáu tăng 12,5% (+ 1vụ), số người chết bằng cùng kỳ năm trước và số người bị thương giảm 75% (-3 người).
Trong tháng, lực lượng cảnh sát giao thông đã kiểm tra, xử lý 4.272 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, phạt tiền gần 9 tỷ đồng, tạm giữ 878 lượt phương tiện vi phạm, tước giấy phép lái xe có thời hạn 685 trường hợp.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 61 vụ tai nạn giao thông (quý I xảy ra 29 vụ; quý II xảy ra 32 vụ), làm 44 người chết (quý I chết 23 người; quý II chết 21 người) và 41 người bị thương (quý I bị thương 19 người; quý II bị thương 22 người). So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong 6 tháng đầu năm 2023 giảm 11,6% (-8 vụ), giảm 31,3% (-20 người chết) và số người bị thương tăng 41,4% (+12 người). Bình quân 1 tháng trong 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh xảy ra 10 vụ tai nạn giao thông, làm 7 người chết và 7 người bị thương.
9.7. Tình hình vi phạm môi trường
Trong tháng 6/2023, toàn tỉnh xảy ra 03 vụ vi phạm môi trường (02 vụ ô  nhiễm tiếng ồn, 01 vụ ô nhiễm môi trường) giảm 25% (-01 vụ) so với tháng trước, giảm 75% (-09 vụ) so với cùng kỳ năm trước; số vụ vi phạm đã xử lý là 04 vụ, tăng 33,3% (+01 vụ) so với tháng trước, giảm 66,7% (-08 vụ) so với cùng kỳ năm trước; xử phạt 76 triệu đồng, giảm 70,9% (-185,5 triệu đồng) so với tháng trước, giảm 80,5% (-314,6 triệu đồng) so với cùng kỳ năm trước.
Lũy kế sáu tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 30 vụ vi phạm môi trường, giảm 26,8% (-11 vụ) so với cùng kỳ năm trước; đã xử lý 29 vụ, giảm 38,3% (-18 vụ); đã xử phạt 577,2 triệu đồng, giảm 26,8% (-211,4 triệu đồng).
9.8. Thiệt hại do thiên tai
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh thời tiết thuận lợi không xảy ra thiệt hại thiên tai, bằng cùng kỳ năm trước. Lũy kế sáu tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh Bình Định xảy ra 01 vụ thiên tai, giảm 66,7% (-02 vụ) so với cùng kỳ năm trước./.

Tác giả bài viết: Phạm Thị Chung Thuỷ

Tổng số điểm của bài viết là: 6 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 3 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Số 757/QĐ-CTK

Quyết định ban hành lịch phổ biến thông tin thống kê năm 2024

lượt xem: 73 | lượt tải:24

Số 62/2024/NĐ-CP

Nghị định Số 62/2024/NĐ-CP

lượt xem: 111 | lượt tải:32

Số:1100/QĐ-CTK

Quyết định về việc ban hành Lịch phổ biến thông tin thống kê năm 2024

lượt xem: 474 | lượt tải:99

Số:189 /KH-UBND

KH-Triển khai thực hiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã

lượt xem: 482 | lượt tải:334

Số: 4072/QĐ-UBND

Quyết định thực hiện Hệ thống chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã

lượt xem: 517 | lượt tải:138
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập24
  • Hôm nay2,031
  • Tháng hiện tại91,358
  • Tổng lượt truy cập49,690,119
Liên kết Web
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây